Tiểu sử Thôi_Trí_Viễn

Thôi Trí Viễn sinh vào năm 857 trong một gia đình quý tộc ở Sa Lương bộ, kinh đô Kim Thành (nay là Khánh Châu) của Tân La. Người ta không biết nhiều về gia thế của ông. Tam quốc sử ký chép rằng "sử liệu đã mất hết, [nên] không rõ dòng dõi".[2] Chỉ biết rằng, ông đã nhận được giáo dục rất tốt từ gia đình ngay từ khi còn nhỏ.[3] Trong các tác phẩm của mình, ông nhiều lần tự xưng là "Nho gia môn mạt học", "Huyền thố vi nho".

Quãng thời gian tại Trung Quốc

Năm 868, Thôi Trí Viễn, lúc bấy giờ mới 12 tuổi,[4][5] đã theo thuyền buôn tới nhà Đường du học. Trước khi rời khỏi quê hương, cha của ông từng nói rằng: "Nếu mi trong vòng 10 năm không đậu tiến sĩ, thì chớ làm con của ta, ta cũng không muốn có một đứa con như vậy."[6][7] 6 năm sau, trong kỳ khoa cử, Thôi Trí Viễn đã thi đỗ tiến sĩ.[8][9][10] Căn cứ theo quy định của nhà Đường, thi đậu tiến sĩ chỉ đem lại cho người đó tư cách làm quan, còn muốn thụ phong chức quan thì còn cần phải trải qua xét tuyển của Bộ Lại. Quãng thời gian sau đó, Thôi Trí Viễn tới thành Lạc Dương mở lớp dạy học kiếm sống. Ông đã miêu tả giai đoạn này bằng hai câu thơ: "Lưu lạc ở Đông Đô,[lower-alpha 1] dùng bút để nấu cơm." Trong khoảng thời gian tại đây, ông đã viết tổng cộng 3 cuốn sách, trong đó quyển thứ nhất gồm 5 bài thuộc thể phú, quyển thứ 2 gồm 100 bài thuộc thể thất ngôn và quyển thứ ba là 30 bài thơ gồm các chủ đề khác nhau. Nội dung của 3 quyển sách này chủ yếu liên quan tới việc ông chuẩn bị tham gia "bác học hồng từ khoa".[11]

Năm 877, Thôi Trí Viễn được bổ nhiệm làm huyện úy Lật Thủy (nay là quận Lật Thủy, Nam Kinh, Giang Tô). Trong bốn năm làm quan tại đây, ông đã có cơ hội tiếp xúc với những tầng lớp thấp của xã hội, qua đó hiểu được thực tế về xã hội và cuộc sống của người dân Trung Quốc. Cũng trong gia đoạn này, Thôi Trí Viễn sáng tác nhiều tác phẩm về những chủ đề khác nhau, bày tỏ sự đồng cảm với nỗi thống khổ của nhân dân, trong đó có tác phẩm Trung Sơn phúc quỹ tập gồm 5 quyển. Tuy là một huyện úy hưởng bổng lộc nhưng điều này không đảm bảo cho Thôi Trí Viễn đủ cơm ăn áo mặc. "Cũng vì bổng lộc không đủ, mà không thể cứu giúp [nhân dân]", ông không còn cách nào khác ngoài việc phải tìm một lối thoát. Năm 884, ông rời Lật Thủy đến Hoài Nam để tham gia khoa thi Bác học.[lower-alpha 2][11]

Tại Hoài Nam, Thôi Trí Viễn được Tiết độ sứ Hoài Nam lúc bấy giờ là Cao Biền mời làm quan tòng sự, chuyên xử lý các vấn đề văn thư.[12] Sau khi khởi nghĩa Hoàng Sào nổ ra, Cao Biền được bổ nhiệm làm Chư đạo binh mã đô thống. Thôi Trí Viễn dưới trướng Cao Biền đã biên soạn một lượng lớn công văn, trong đó có tác phẩm Hịch Hoàng Sào sách trứ danh. Tài năng của ông được Cao Biền cùng Đường Hy Tông đánh giá cao. Cũng chính vì thế mà ông được phong làm Lang thị Ngự sử trong cung, được phép mặc áo tía, đeo túi cá vàng.[lower-alpha 3] Về sau, Thôi Trí Viễn đem các tác phẩm của mình trong thời kỳ này tổng hợp thành Quế uyển bút canh tập gồm tổng cộng 20 quyển. Sau khi thất thế, Cao Biền thường xuyên nghe lời nịnh nọt, Thôi Trí Viễn cũng vì thế mà dần dần rơi vào lãng quên. Năm 884 TCN, ông dâng thư thỉnh cầu về nước, được Cao Biền chuẩn ý. Thôi Trí Viễn rời Trung Quốc về Tân La vào tháng 8 năm đó, được Đường Hy Tông lệnh mang theo quốc thư, lấy thân phận sứ giả nhà Đường để về nước. Trước khi lên đường, Cố Vân, một nhà thơ thời Vãn Đường, đã viết một bài thơ tiễn biệt người bạn lâu năm.[13]

Trở lại Tân La và những năm cuối đời

Hải Ấn tự trên núi Già Sơn, nơi Thôi Trí Viễn lui về quy ẩn, cũng là nơi cất giữ bản khắc Bát vạn đại tạng kinh được UNESCO đưa vào danh sách di sản thế giới năm 1995

Sau khi quay về Tân La sau, Thôi Trí Viễn được bổ nhiệm làm Thị độc kiêm Hàn Lâm học sĩ, thủ Binh Bộ Thị Lang và Tri thụy thư giam đẳng. Triều đình Tân La lúc bấy giờ đã cực kì hủ hóa, triều chính hủ bại, đời sống nhân dân khốn khổ. Năm thứ hai sau khi trở về nước, ông từng dâng lên Chân Thánh nữ vương Thời vụ sách chứa mười một điều khuyên nhủ kẻ cai trị Tân La cần thi hành những biện pháp chính trị nhân từ để cứu vãn quốc gia nguy vong. Tuy nhiên, những đề xuất cải cách của ông đều bị làm ngơ. Buồn bã, Thôi Trí Viễn sáng tác rất nhiều bài thơ biểu đạt sự bất mãn đối với hiện thực, phê phán tệ nạn xã hội và châm biếm thói đạo đức giả của những kẻ thuộc tầng lớp thống trị. Kết quả là ông bị nữ vương trách cứ và giáng xuống làm quan địa phương, giữ chức Thái thú quận Đại Sơn. Cảm giác Tân La đã qua mục nát không cách nào vãn hồi, Thôi Trí Viễn quyết định từ quan, lui về núi Già Sơn quy ẩn ở tuổi 41.[14][15] Một trong những bài thơ còn sót lại của ông, "Triều lãng", thể hiện tâm trạng của ông:

驟雪翻霜千萬重,
往來弦望躡前蹤。
見君終更能懷信,
慚我趨時盡放慵。
石壁戰聲飛霹靂,
雲峰倒影撼芙蓉。
因思宗慤長風語,
壯氣橫生憶臥龍。

Sậu tuyết phiên sương thiên vạn trùng,
Vãng lai huyền vọng nhiếp tiền tung.
Kiến quân chung cánh năng hoài tín,
Tàm ngã xu thời tận phóng dung.
Thạch bích chiến thanh phi phích lịch,
Vân phong đảo ảnh hám phù dung.
Nhân tư Tông Xác trường phong ngữ,
Tráng khí hoành sinh ức Ngoạ Long.

Phơi sương đạp tuyết ngàn vạn lớp,
Chưa tan đợt trước đã cuộn dòng.
Thuỷ chung ngọn sóng không sai hẹn,
Biếng nhác thân ta luống thẹn thùng.
Vách đá tiếng quân vang vọng tới,
Non mây sa bóng đẩy phù dung.
Gió reo, nghĩ đến lời Tông Xác,
Tráng khí trào dâng nhớ Ngoạ Long.[lower-alpha 4]

Có nhiều giả thuyết khác nhau liên quan tới cái chết của ông. Theo Phá nhàn tập của Lý Nhân Lão, Thôi Trí Viễn một buổi sáng sớm đột nhiên mất tích, người nhà cùng bằng hữu tìm kiếm khắp nơi nhưng chỉ tìm thấy giày và mũ của ông trong sơn cốc. Giai thoại kể rằng, Thôi Trí Viễn lúc về già ủng hộ Vương Kiến. Trong một bức tín thư gửi cho Vương Kiến, ông có ghi 8 chữ: "Kê lâm hoàng diệp, cáp lĩnh thanh tùng." Sau khi Vương Kiến kiến lập vương triều Cao Ly, Thôi Trí viễn được truy phong là Văn Xương hầu, được thờ tự trong Văn miếu.[16][17]